Just another free Blogger theme

Được tạo bởi Blogger.

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2015




Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”

Một người đàn bà nướng bánh mì cho gia đình mình và làm dư ra một cái để cho người nghèo đói.

Bà để ổ bánh mì dư trên thành cửa sổ bên ngoài cho người nghèo nào đó đi qua dễ lấy. Hàng ngày, có một người gù lưng đến lấy ổ bánh mì.

Thay vì nói lời cám ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời sau đây:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”.

Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác. Mỗi ngày, người gù lưng đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu: “Việc xấu người làm thì ở lại với người, việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”.

Người đàn bà rất bực bội. Bà thầm nghĩ, "Không một lời cám ơn, ngày nào người gù này cũng đến lấy bánh ta làm rồi lải nhải giai điệu khó chịu ấy! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”.

Một ngày kia, không chịu được nữa, bà quyết định cho người gù đi khuất mắt. Bà tự nhủ, “Ta sẽ làm cho hắn mất dạng.” Và bà đã làm gì ? Bà cho thuốc độc vào ổ bánh mì dư bà làm cho người gù!

Khi bà sắp sửa bỏ ổ bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, đôi tay bà bỗng run lên. Bà hốt hoảng, “Ta làm gì thế này?” Ngay lập tức, bà ném ổ bánh có thuốc độc vào lửa và vội làm một cái bánh mì ngon lành khác rồi đem để lên thành cửa sổ.

Như mọi khi, người gù lưng đến, ông ta lấy bánh và lại lẩm bẩm:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người”.

Ông ta cầm ổ bánh đi cách vui vẻ mà không biết rằng trong lòng người đàn bà đang có một trận chiến giận dữ.

Mỗi ngày, khi người đàn bà đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà đều cầu nguyện cho đứa con trai đi xa tìm việc làm. Đã nhiều tháng qua, bà không nhận được tin tức gì của con. Bà cầu nguyện cho con trở về nhà bình an.

Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa. Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa. Anh ta gầy xọp đi. Quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:

“Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, khát không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường. Nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon và ít nước uống. Khi đưa bánh cho con, ông ta nói: “Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!”

Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. 

Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!

Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói có ý nghĩa đặc biệt của người gù lưng: “Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!” (nhân quả công bằng, gieo nhân gì gặt quả đó).

(Sưu tầm).

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2015





Ông phó thôn Đỗ Văn Khuyến (Phúc Lâm, Việt Yên, Bắc Giang) vốn là thợ mổ trâu, lái trâu chuyên nghiệp, đã hành nghề mấy chục năm, cũng phải thừa nhận rằng, ngẫm lại quãng đời buôn trâu của mình, ông nhận ra, không chỉ thợ mổ trâu, mà lái trâu, buôn thịt trâu, xương trâu, cũng đều không khá giả.

Thậm chí, kiểm đếm lại, ông thấy hầu hết các gia đình liên quan đến việc tàn sát trâu, không dính chuyện nọ thì chuyện kia.

Mở rộng ra ngoài làng Phúc Lâm một chút, ông Khuyến kể về những gia đình buôn bán thịt trâu khét tiếng, xuất thân từ làng Phúc Lâm.

Những người này buôn bán thịt trâu từ Phúc Lâm đi khắp nơi, rồi họ tạo dựng những đại lý phân phối thịt trâu đi khắp ngả. Họ có tiền nên về phố sá sinh sống, xây nhà cửa to tướng, nhưng rồi kết cục đều quay về con số không tròn trĩnh.

Ông Khuyến kể nhiều về bà C., có đại lý bán thịt trâu rất lớn ở phố Hòe Nhai (Hà Nội). Mình bà bươn chải với nghề buôn thịt trâu, mà nuôi cả chồng lẫn đàn con 6 người.

Thế nhưng, thời gian phất lên thì ngắn, mà đi xuống thì dài, đến mức không thể ngóc đầu lên được nữa. Chồng bà mắc trọng bệnh, mất sớm. Người con cả đi tù vì buôn bán ma túy. Vợ anh ta bỏ lại con cho bà nuôi, đi theo người đàn ông khác.

5 người con còn lại, gồm cả trai lẫn gái, gia đình đều lục đục, bỏ nhau, làm ăn vỡ nợ, bỏ xứ trốn nợ không khi nào thấy về nữa.

Giàu có là vậy, con cái nhiều thế, nhưng bà C., giờ ở tuổi 70, vẫn phải bán hàng rong kiếm sống, tự lo cho mình.

Một bà nữa tên Kh., cũng buôn thịt trâu từ Phúc Lâm về Hà Nội. Bà có đại lý phân phối thịt trâu to tướng ở chợ Bắc Qua (Hoàn Kiếm, Hà Nội).

Bà này có 2 người con trai. Một người đi tù vì dính vào ma túy. Một người con thì quăng lựu đạn vào bọn xã hội đen, nhưng lựu đạn không nổ, mà bị chúng bắn chết.

Giờ đã già, bà Kh. vẫn phải phục vụ 2 ông con này. Hai người con dâu đều đã bỏ chồng từ lâu rồi.

Rồi bà M., bán thịt trâu ở Khâm Thiên, có 4 người con thì hiện 3 ông con ngồi tù, còn một ông con cướp tàu bị ngã, hiện cụt chân.

Bà Ch., mỗi ngày tiêu thụ cả tạ thịt trâu của làng Phúc Lâm ở chợ Ngô Sĩ Liên, con cái cũng không ra gì, cứ vào tù ra tội như cơm bữa, nghiện ngập hết cả… 


Còn vô vàn những ví dụ buồn bã liên quan đến cái nghề sát sinh, mà ông Khuyến bảo kể cả ngày cũng chẳng hết.

Ông phó thôn Đỗ Văn Khuyến cho biết, làng nghề mổ trâu Phúc Lâm mỗi ngày thêm mai một, có một phần nguyên nhân từ việc nhiều gia đình gặp nạn vì bị trâu húc.


Tuy nhiên, nguyên nhân chính lại là những ám ảnh vô hình. Làm nghề sát sinh, nên tâm người dân trong làng không tĩnh tại, lúc nào cũng hoang mang, lo lắng bất an.

Sẵn có tâm lý đó, nên bất kỳ cái chết nào, như chết già, chết bệnh, chết tai nạn, hoặc bệnh trọng, gặp rủi ro trong cuộc sống… họ đều đổ cho nguyên do là con trâu “báo oán”.

Ngoài nguyên nhân mang tính tâm linh, thì cũng có những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác. Điều nhận thấy ngay, là nghề mổ trâu mang lại nhiều công ăn việc làm, nhưng nó lại quá vất vả, nguy hiểm, ô nhiễm và đặc biệt là khó làm giàu.

Trong số mấy chục lò mổ, với hàng trăm hộ có nghề nghiệp dính đến con trâu, thì chỉ có vài hộ khá giả. Còn lại, các gia đình làm việc liên quan đến giết mổ trâu đều bình thường, thậm chí là nghèo. Không ít hộ còn phá sản, thậm chí tan nát gia đình, vợ chồng ly tán.

Ông Khuyến phân tích, những thợ buôn trâu, lái trâu là người trong làng, đều ít học hành. Họ lang bạt nay đây mai đó, quan hệ rộng, tiếp xúc với nhiều cái xấu.

Trong túi những lái trâu lúc nào cũng có cả trăm triệu đồng để chi trả cho việc mua trâu, nên khó tránh khỏi chuyện chơi bời, cờ bạc, thậm chí là trụy lạc. Không ít anh có vợ lớn, vợ bé, con chung, con riêng ở khắp nơi. Nhiều ông vỡ nợ vì bị gái lừa. Nhiều gia đình tan nát vì cái nghề liên quan đến con trâu này.

Nguồn: Bài viết phóng sự "Kỳ lạ chuyện tán gia bại sản vì dính dáng đến con trâu" của tác giả Thái Phong Bình trên VTC.


Theo người dân làng Phúc Lâm (Hoàng Ninh, Việt Yên, Bắc Giang), mỗi khi dắt trâu về làng, những con trâu đều tỏ ra sợ hãi. Có con thì lồng lên như phát điên, có con sợ hãi không dám đi, có con thì chảy nước mắt…

Những người chuyên nghề giết mổ, đã quá quen với việc sát sinh, nhìn đôi mắt con trâu thì không để tâm, nhưng những người nhạy cảm, thương loài vật, nhìn đôi mắt nó thì xót xa, thương cảm lắm.

Người ta đồn rằng, làng Phúc Lâm giết mổ trâu nhiều quá, lâu năm quá rồi, nên sát khí trong làng tỏa ra rất nặng. Chính vì thế, những con trâu có thần kinh nhạy cảm, cảm nhận được những nguy hiểm sắp đến với mình, nên nó mới phản ứng dữ dội, mới hóa điên ngay khi được dắt vào làng. 

Chuyện người dân làng Phúc Lâm bị trâu hóa điên tấn công thì nhiều lắm, có kể mãi cũng không hết. Suốt 100 năm nay, năm nào chẳng có vài chục vụ loài trâu hóa điên khi đưa về ngôi làng này.

Nhưng người Phúc Lâm giết mổ chuyên nghiệp, đâu có dễ để trâu hóa điên thoát thân chạy dọc làng, húc người bừa bãi. Chỉ những con trâu quá khỏe, giật đứt thừng, đứt mũi, hoặc người dắt trâu sơ sểnh, nó mới thoát thân được.


Từ xưa đến nay, ở làng Phúc Lâm, đã có nhiều người thương vong vì bị trâu nổi điên húc. Ngay trong gia đình ông trưởng thôn Đỗ Văn Truật, cũng có người mất mạng vì trâu nổi điên. Người mất mạng không phải xa xôi gì, mà chính là bà Nguyễn Thị Ẩm, chị dâu ông Truật.

Hôm đó, cách nay 4 năm, một xe tải chở mười mấy con trâu, là giống trâu núi về lò mổ nhà ông V., ở ngay đầu làng Phúc Lâm. Loài trâu nuôi dưỡng trên núi nhiều thịt, thịt chắc, lại béo khỏe nên được các lò mổ ưa chuộng.

Tuy nhiên, vận chuyển chúng từ trên núi về, hành trình đi lại vất vả, môi trường đồng bằng khác biệt, nên những con trâu núi chưa thích hợp được ngay.

Việc dắt những con trâu này xuống khỏi ô tô rất khó, và chúng thường có nhiều cách phản ứng khác nhau, phổ biến nhất là nổi đóa, lồng lên giận dữ. 

Chừng 10 giờ sáng, con trâu mộng cuối cùng được dắt xuống khỏi xe. Phải mấy thanh niên mới kéo được nó xuống. Tuy nhiên, khi vừa dắt vào lò mổ, nó lồng lên dữ dội. Mũi trâu bị rách, tuột dây thừng, con trâu chạy dọc làng, húc lung tung.

Người dân làng Phúc Lâm đã quen với cảnh này nên hết sức bình tĩnh. Mọi người đóng kín cổng, cửa, không ai bước chân ra đường nữa. Con trâu chạy đến cuối làng, thấy nhà bà Ẩm không có cổng rả gì, thì xông vào. Khi đó, bà Ẩm đang xua đàn gà vào chuồng để nhốt lại.

Thấy bóng dáng bà Ẩm, không cần biết đó có phải kẻ thù hay không, nó lao thẳng vào sân húc tung bà Ẩm lên không trung. Khi bà Ẩm bất tỉnh, nó tiếp tục xông vào những ngôi nhà khác để tìm người. Hàng chục thanh niên lực lưỡng đã lùa nó vào một lò mổ, đóng chặt cửa sắt, nhốt nó lại, rồi hạ sát con trâu mộng này ngay lập tức.

Ngay lúc đó, người thân đưa bà Ẩm đi cấp cứu ở bệnh viện, vì vẫn thấy bà thở thoi thóp. Vạch áo ra, thấy cơ thể bà Ẩm không hề có vết thương. Tuy nhiên, người dân ở làng Phúc Lâm đều biết rằng, nếu không có vết thương, mà bất tỉnh nhân sự, lại có chút máu rỉ ra từ miệng, thì bà Ẩm khó bề sống được.

Nếu trâu húc bằng sừng, có thể rách da thịt, gãy xương, thậm chí lòi ruột, nhưng vẫn còn cơ may sống sót, còn nếu nó húc bằng đầu, không tạo ra vết rách, nhưng lực húc của nó quá mạnh, khiến tim, gan, phổi, mật, lá lách dập nát hết cả. 

Mặc dù bà Ẩm còn thoi thóp thở khi được đưa đến bệnh viện, song qua chiếu chụp, siêu âm, bác sĩ đều lắc đầu. Chỉ một lát nằm viện, bà Ẩm đã qua đời.

Cái chết của bà Ẩm khiến dân làng Phúc Lâm thêm phần kinh hãi. Người ta đồn rằng, do đại gia đình nhà bà Ẩm cũng làm nghề sát hại trâu, nên mới bị trâu húc chết. Tuy nhiên, ông Truật bác bỏ điều đó.

Bao năm tiếp xúc với loài trâu ở ngôi làng mổ nhiều trâu nhất nhì Việt Nam này, ông Truật hiểu rõ loài trâu hơn cả. Khi con trâu cùng đường, nổi điên, thì hễ nhìn thấy người là nó húc, chứ đâu có chừa ai. Nếu nó quả thật biết “báo oán”, thì nó phải húc chết những người có ý định giết nó, chứ ai lại đi hại một bà già.

Theo chỉ dẫn của người dân ở làng Phúc Lâm, tôi tìm gặp lái trâu Đỗ Văn Tư. Anh Tư còn trẻ, sinh năm 1985, nhưng đã có ngót chục năm làm nghề lái trâu, mổ trâu.

Ngày bé, Tư làm những công việc phụ giúp cha mổ trâu. 16 tuổi đã có thể vác vồ đập con trâu vài tạ ngã lăn quay, rồi chọc tiết ngọt sớt, lóc da, xẻ thịt như một thợ mổ chuyên nghiệp.

20 tuổi, Đỗ Văn Tư đã ngang dọc Bắc – Nam, trở thành lái trâu lành nghề, có số má ở làng mổ trâu nổi tiếng đất Bắc này. 

Đang từ một thanh niên khỏe mạnh, trời không sợ, đất không sợ, bỗng dưng, đùng một cái, Đỗ Văn Tư bỏ nghề. Không chỉ Tư, mà cả đại gia đình cậu cũng đóng cửa lò mổ trâu.

Đỗ Văn Tư bảo: “Con mắt nhìn cái nghề giết mổ của em không chỉ hạn hẹp quanh cái làng Phúc Lâm này đâu anh ạ. Em đi tứ xứ, lang bạt kỳ hồ, tiếp xúc toàn với giới buôn gia súc, giết mổ gia súc và cái mà em đúc kết được, là chẳng có ai làm giàu thành công từ cái nghề này anh ạ. Có thể không bị đói miếng ăn, nhưng giàu thì không thể.

Anh cứ nhìn cái làng này mà xem, cả làng mổ trâu, toàn lò mổ to tướng, mua trâu, bán thịt, thu về tiền tỉ hàng tháng, nhưng rốt cục cũng có giàu được đâu? Đã không giàu được vì nghề, lại phải gánh cái nghiệp sát sinh, thì thà bỏ nghề càng sớm càng tốt, để nghiệp mình đỡ nặng”.

Thật khó có thể ngờ, một anh chàng chưa đầy 30 tuổi, một tay lái trâu, mổ trâu chuyên nghiệp mà lại có những triết lý, thể hiện người có vốn sống dày dặn đến như vậy.

Tư bảo, từ ngày cầm cái vồ đập cho trâu choáng, ngất, Tư đã thấy cái nghề sát sinh này đầy bất an. Tuy nhiên, chỉ đến khi một con trâu nổi điên, sát hại những người trong gia đình, thì Tư mới thực sự tin loài vật biết "báo oán".

Chuyện con trâu ở lò mổ nhà Tư nổi điên xảy ra 4 năm trước. Hôm đó, khách hàng đặt nhiều quá, nên nhà Tư phải mổ 4 con trâu to. Công việc nhiều, không có thợ, nên mẹ Tư phải gọi ông chú của Tư, tên là Dự, cũng là thợ mổ trâu có tiếng trong làng, đến phụ giúp một tay.

Công việc mổ trâu diễn ra từ 1 giờ sáng. 3 con trâu mộng đã biến thành những khối thịt đỏ thẫm. Chỉ còn một con nữa là hoàn tất công việc.

Ông chú của Tư luồn dây thừng vào chiếc cột để ghì đầu trâu xuống sát mặt đất. Sau khi cột trâu lại, thì dùng vồ đập trúng đầu nó. Tuy nhiên, ông Dự vừa cột xong, thì con trâu hoảng hốt rống lên. Nó giãy đạp, giật mạnh hết cỡ. Chiếc dây thừng to thế mà đứt tung. 


Con trâu điên cuồng nhằm ông Dự húc thật lực. Cái sừng không nhọn lắm của nó xuyên thủng bụng, khiến ruột ông Dự lòng thòng ra ngoài. Mẹ Tư chứng kiến cảnh đó, chỉ biết hét lên kêu cứu, chứ không thể làm gì được.

Nghe tiếng hét, con trâu chuyển sang tấn công mẹ Tư. Biết nó sẽ hại mình, bà liền bỏ chạy. Con trâu đuổi theo, húc bà ngã xõng xoài xuống mặt đất. Tưởng bà chết rồi, nó phá cổng chạy ra ngoài.

Khi con trâu chạy thoát ra cánh đồng, thì dân làng mới đuổi theo khống chế. Gia đình lập tức đưa mẹ Tư và chú Dự đi cấp cứu. Tuy nhiên, ông Dự đã qua đời vì mất máu quá nhiều.

Ngoài việc con trâu húc thủng bụng, thì cú húc của nó khiến nhiều cơ quan nội tạng dập nát, chảy máu. Anh em, họ hàng truyền cho ông cả chục đơn vị máu, nhưng ông vẫn không sống được. Mẹ Tư tuy không ảnh hưởng đến tính mạng, nhưng cũng bị vỡ xương hông, phải nằm mấy tháng trời.

Sau vụ con trâu nổi điên kinh hoàng, phá dây thừng, húc chết chú ruột và mẹ, gia đình Tư, cùng một số hộ trong họ hàng đã quyết định đóng cửa lò mổ. Tư cũng bỏ luôn nghề lái trâu. Giờ Tư đi làm thuê, làm mướn, tuy kiếm được ít tiền hơn, nhưng có tiền đều đặn và điều quan trọng hơn, là tinh thần được thoải mái.

Theo ông phó thôn Phúc Lâm Đỗ Văn Khuyến, sau vụ việc con trâu nổi điên húc chết một người và húc bị thương một người trong gia đình anh Tư, thì người dân ở làng cẩn thận hơn trong việc dắt trâu, giết mổ trâu.

Hầu hết các vụ trâu nổi điên tấn công người là do quá trình dắt trâu không cẩn thận, dây thừng buộc không vững. Thậm chí, nhiều gia đình khi đưa trâu về làng, còn lấy bao tải trùm đầu, bịt mắt nó lại để nó không hoảng sợ.

Tuy nhiên, cách làm đó cũng không khiến loài trâu bình tĩnh được. Có lẽ, trâu có giác quan thính nhạy, nên nó cảm nhận được sát khi toát ra từ ngôi làng này.

Và, một vụ tai nạn mới nhất cũng lại tiếp tục xảy ra, khi mới đây, một con trâu đã giật đứt dây thừng, nổi điên, và húc trọng thương bà Nguyễn Thị Hà. Cú húc của nó khiến bà Hà dập lá lách. Mặc dù máu chảy đầy ổ bụng, nhưng do được cứu chữa kịp thời, nên bà Hà giữ được mạng sống.

Nhưng cái chết hụt của bà Hà, đã thêm một dấu hiệu nữa khiến người dân Phúc Lâm hoảng sợ, đồn đại ầm ĩ về chuyện trâu “báo oán” con người.

Nguồn: Bài viết phóng sự "Kinh hãi chuyện trâu liên tiếp nổi điên húc người ở làng giết mổ" của tác giả Thái Phong Bình trên VTC.


Sau khi chứng kiến cảnh giết trâu kinh hãi ở làng Phúc Lâm (Việt Yên, Bắc Giang), gặp lại phó thôn Đỗ Văn Khuyến. Ông Khuyến bảo rằng: “Ngẫm cho cùng, việc mổ trâu quả thực kinh hãi. Bao năm làm nghề, đến lúc cuối đời, tôi mới nhận ra nên bỏ cái nghề giết mổ này càng sớm càng tốt. Và tôi đã thực hiện được. Không chỉ vậy, nhiều gia đình ở làng cũng đã bỏ nghề”.

Tìm hiểu ở làng Phúc Lâm, tôi được biết, có khá nhiều những cái chết bí ẩn ở ngôi làng này. Có những cái chết ở gia đình mổ trâu thì người dân liên hệ với chuyện bị “oan hồn” loài trâu “báo oán”, song cũng có những cái chết liên quan trực tiếp đến con trâu, đặc biệt là bị trâu húc chết, thì khiến những người cầm dao mổ trâu cực kỳ sợ hãi.

Theo lời kể của người dân Phúc Lâm, 4 năm trước, nhà ông Đỗ K. vẫn là chủ lò mổ to nhất làng Phúc Lâm. Mỗi đêm, nhà ông K. hạ sát 15-17 con trâu lớn bé.

Đại gia đình nhà ông K. có 4 người con trai làm công việc này. Người trực tiếp mổ trâu, người quanh năm suốt tháng lang bạt ở miền núi, để tìm những con trâu béo, nhiều thịt, thậm chí sang tận Lào, Capuchia để lựa trâu. Hàng chục lái buôn khắp cả nước sục sạo khắp nơi mới cung cấp đủ trâu cho lò mổ nhà ông K.

Cứ độ 12 giờ đêm, một chiếc xe tải cỡ lớn lại chở mười mấy con trâu đến cổng lò mổ nhà ông. Với bề dày mấy chục năm giết mổ, đã có hàng vạn con trâu bỏ mạng ở nhà ông này. Những người tin vào tâm linh cho rằng, sát khí ở mảnh đất nhà ông K. tỏa ra rất nặng. 
 
Bữa đó, cũng như mọi ngày, chiếc xe tải chở 15 con trâu từ mãi Hà Giang về, đỗ trước cổng lò mổ. Lần lượt từng con trâu bị hạ sát. Đến con trâu cuối cùng thì xảy ra chuyện lạ. Mấy người thay nhau kéo, nhưng con trâu nhất quyết không chịu xuống khỏi thùng xe tải, cứ ghì lại. Tức mình, cả chục người xông vào, trói nghiến con trâu lại rồi vần xuống khỏi xe tải.

Khi vần trâu xuống xe, cởi trói, nhưng con trâu không chịu đứng lên, mà hai chân trước cứ quỳ xuống như phủ phục. Nó không rống lên, không giãy dụa nữa, nhưng nước mắt ứa ra.

Một số người thấy con trâu có biểu hiện như vậy thì ngăn cản việc giết nó. Người làng Phúc Lâm vẫn tin rằng, những con trâu có biểu hiện như thế là có tính linh, tức nó mang linh hồn con người, có kiếp trước là con người. Những con trâu như thế thường hiền lành, chịu khó cày bừa, thân thiện với con người và những thợ mổ tin vào thế giới tâm linh thường không giết hại nó.

Tuy nhiên, ông K. không tin vào chuyện đó. Mấy chục năm làm nghề, gia đình ông mỗi ngày thêm giàu có, chưa ai bị trâu “báo oán”, nên ông không tin, không sợ. Sau một lát bàn cãi, thì con trâu này cũng toi mạng.


Điều kinh dị như dự đoán xảy ra ngay khi giết hại con trâu kỳ lạ này. Con trâu bị hạ sát vào tháng 2, thì đến tháng 4, người con trai của ông K, sinh năm 1968 tự dưng lăn đùng ra chết.

Điều lạ lùng là anh này không theo nghề mổ trâu của gia đình. Được ăn học tử tế, anh này tạo lập cuộc sống ở Hà Nội và làm cán bộ khá to. Bình thường, anh này không có bệnh tật gì cả. Thế nhưng, một hôm, đang ngồi xem tivi trong nhà, anh đột nhiên kêu mệt nên vào giường ngủ. Nửa đêm, anh lên cơn co giật. Gia đình đã đưa đi viện, nhưng không cứu được.

Cái chết của anh này khiến gia đình hoang mang. Bà vợ ông K. đi xem bói, thầy phán rằng gia đình bị một “oan hồn báo oán”. Lúc này, gia đình ông K., mới liên hệ đến việc giết hại con trâu nọ.

Khi trình bày điều này, thì ông thầy bói khẳng định chắc chắn là do linh hồn con trâu “báo oán”. Vợ ông K. cúng bái ghê lắm, sắm đủ các loại lễ, tốn kém hàng trăm triệu đồng. Thậm chí, vợ ông K. mời cả giá đồng về nhà cúng giải hạn, siêu thoát cho "linh hồn" con trâu.

Thế nhưng, sự cố gắng của bà không mang lại hiệu quả. Thời gian ngắn sau đó, một người con nữa của ông K. đột nhiên trở nên ốm yếu. Anh này vốn rất khỏe mạnh, mổ trâu nhanh thoăn thoắt, giỏi nhất nhà, nhưng cơ thể cứ ốm yếu dần. 

Gia đình đưa đi khắp các bệnh viện điều trị nhưng không hiệu quả. Thời gian ngắn sau thì anh trút hơi thở cuối cùng. Gia đình giữ bí mật, nên hàng xóm không ai biết anh chết vì nguyên do gì. Vậy là, tin đồn bị “oan hồn” con trâu “báo oán” lại lan ra, khiến cả làng sợ hãi.

Đỉnh điểm của nỗi sợ hãi, là cái chết của cô con gái út. Cô con gái út của ông K. đang học đại học năm cuối ở Hà Nội. Gia đình giàu có, cô được đi học tử tế, không dính dáng gì đến công việc giết mổ trâu bò.

Thế nhưng, trên đường từ Hà Nội về thăm nhà, đang lái xe máy, thì chiếc xe tải mất phanh đâm thẳng vào cô. Gia đình đến nhận xác con gái mà bàng hoàng khủng khiếp. Cô con gái út xinh đẹp, giỏi giang, mà giờ chỉ còn nhận ra qua chiếc áo.

Sự việc chết chóc liên tiếp xảy đến với gia đình ông K., khiến ông không thể không để tâm đến những lời đồn của dân làng, lời khuyên can của thầy bói. Gia đình đã đi làm lễ ở rất nhiều chùa, gặp rất nhiều thầy bói và đều nhận được lời khuyên như nhau, là gia đình cần phải làm lễ cầu siêu cho loài trâu, làm lễ giải hạn cho gia đình và bỏ ngay nghề giết mổ.

Chỉ trong 2 năm, gia đình ông K. mất 3 mạng người, quả là một mất mát quá lớn. Bao năm mổ trâu, thu về bao nhiêu tiền bạc, cũng không bù lại được những mất mát khủng khiếp như thế.

Đến lúc này, thì ông K. và những người con của mình, không còn đủ dũng cảm cầm búa đập chết loài trâu và lột da, moi bụng chúng nữa. Đại gia đình ông K. đã quyết tâm bỏ nghề. Thậm chí, những người con dâu, vốn chỉ làm nghề buôn da, đổ mối thịt trâu cũng bỏ luôn nghề. Đại gia đình ông không dám dính dáng gì đến con trâu nữa. Cứ ngày rằm, mùng 1, đại gia đình lại đến chùa Phúc Lâm tụng kinh, gõ mõ, nhờ thầy cúng bái giải hạn.

Sau sự việc khủng khiếp ấy, không chỉ gia đình ông K., mà mấy hộ gia đình ở cạnh cũng sợ hãi, đóng cửa luôn lò mổ trâu.  

Nguồn: Bài viết phóng sự "Đại gia đình bỏ nghề giết mổ vì sợ loài trâu 'báo oán'" của tác giả Thái Phong Bình trên VTC.


Theo lời ông thủ từ, một số người làm nghề giết mổ trâu, bò, khi chết có máu tươi chảy ra đằng miệng.

Con trâu là vật nuôi gắn bó với người nông dân Việt Nam từ hàng ngàn năm trước, nó là đầu cơ nghiệp, là biểu tượng của nền văn minh lúa nước, vì thế, người ta tin, nó có linh hồn.

Ông thủ từ ngôi đền Giang Xá (Hoài Đức, Hà Nội) Hồ Xuân Đức nói rằng: “Con trâu là loài làm thật, ăn giả. Nó chỉ ăn cỏ, ăn rơm, mà làm ra lúa gạo, tiền của nuôi sống con người. Gia đình nào tốt bụng, còn lấy bao tải mặc cho nó, rồi căng bạt, đốt lửa sưởi ấm cho nó vào những ngày giá lạnh. Vậy mà con người nỡ giết nó, thì nặng nghiệp lắm!”.

Ông Đức bảo rằng, mấy chục năm nay, ông theo dõi chủ lò mổ trâu, bò, ngựa, những con vật ăn cỏ, là đầu cơ nghiệp của nhà nông và nhận thấy rằng, hầu hết những gia đình đó đều có hậu vận không tốt, gặp họa đến nhiều đời sau nữa. Còn kiếp sau của những đồ tể đó thế nào, thì chỉ có về thế giới bên kia mới biết được.

Rồi ông Đức kể chuyện về ông ba toa H., nhà ở làng Giang Xá, xã Đức Giang. Ông H. có lò mổ trâu nhỏ, mỗi ngày giết 1-3 con. Nghề mổ trâu có từ đời cha ông H. Bố của ông cũng là thợ mổ trâu có tiếng. Bố chết, ông H. nối tiếp công việc sát sinh này.

Là bạn thân, nên ông Đức thường xuyên trò chuyện, tâm tình với ông H. về nghề sát sinh, đặc biệt là sát hại loài trâu. Ông H. làm giàu bằng nghề này, nên không thể bỏ được. Nghe khuyên giải nhiều quá, nhiều lần ông H. còn nổi cáu với người bạn thân. 

Một hôm, cách đây chừng 10 năm, ông H., khi đó ngoài 50 tuổi, ra đền Giang Xá ngồi uống nước với ông Đức và mấy cựu chiến binh trong xóm. Vừa thắp nhang trong đền xong, ngồi uống được mấy chén nước, rít điếu thuốc lào, ông H. kêu tức ngực, khó chịu trong người và bảo: “Mấy ông ngồi đây, tôi về nghỉ tí”.

Nói rồi, ông H. lững thững đi về. Lát sau, vợ ông H. hớt hải chạy ra đền, mặt mũi xám ngoét: “Các bác vào nhà tôi xem thế nào, ông nhà tôi cứ làm sao ấy!”.

Ông Đức chạy vào, thấy ông H. nằm bất động trên giường, lay không dậy, gọi không thưa. Lát sau, y tá đến, thì ông H. co giật đùng đùng, rồi hộc máu tươi chết. Ông chết một lúc rồi, mà dòng máu tươi vẫn rỉ ra từ miệng. Nhìn cảnh ấy, ai cũng kinh hãi.

Ông H. chết đi, nghe lời khuyên của ông Đức, con cháu dẹp bỏ lò mổ, không theo nghề sát sinh này nữa. Theo lời ông Đức, ông đã theo dõi một số vụ chết chóc của những người giết mổ gia súc và thấy rằng, một số người trong số họ, dù chết trẻ hay chết già, đều có máu tươi chảy ra đằng miệng.

Nguồn: Bài viết phóng sự "Chuyện rùng rợn quanh lời đồn 'báo oán' ở làng mổ trâu ở Bắc Giang" của tác giả Thái Phong Bình trên VTC.

Năm 1977, cảnh sát Chicago đã yêu cầu ông Allen Showery đến trình diện để thẩm vấn. Mọi người đều cảm thấy ngạc nhiên nhưng ông thì biết rõ lý do. Năm 1976, ông Showery đã tới căn hộ của bà Teresita Basa, đâm bà tới chết và sau đó thiêu xác nạn nhân. Mọi việc đã không bị cảnh sát phát giác nếu như không có chuyện kỳ lạ: bà Teresita đã kể cho cảnh sát mọi chuyện.

  Allen Showery, sát nhân.

Đầu năm 1977, bác sĩ khoa hô hấp Remy Chua – người làm cùng bệnh viện với Teresita- đã nhìn thấy bóng ma của bà ở hành lang bệnh viện. Một thời gian sau, Remy bắt đầu xuất hiện những biểu hiện lạ như hát vu vơ, trở nên xa cách với mọi người… Đến một ngày, Remy bị bệnh liệt giường và bắt đầu nói chuyện bằng giọng của Teresita.

Linh hồn Teresita đã cầu xin sự giúp đỡ của Chồng của Remy, cũng là một bác sĩ. Bà đã tố cáo Showery cùng những vật dụng hắn đã lấy khỏi căn hộ ngày bà bị sát hại, cũng như số điện thoại của những người thân để đảm bảo. Mặc dù ban đầu cảnh sát tỏ ra khá nghi hoặc, nhưng sau khi khám nhà Showery, mọi vật chứng đều khẳng định hắn là kẻ giết người. Linh hồn bà Teresita sau đó cũng đã rời cơ thể Remy. Không ai có thể giải thích hiện tượng kỳ lạ này cho tới nay.

  Teresita Basa, nạn nhân.

Nguồn: thienphatgiao.wordpress



Đầu óc con người muốn thanh tịnh, sạch sẽ cũng phải “đổ rác”- đổ bớt rác rưởi của tâm hồn. Những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, tị hiềm, những tư tưởng loại trừ, kỳ thị, ghét bỏ đều là rác rưởi của tâm hồn.

Vào sáng Chủ Nhật, có thể là do ngày nghỉ rảnh rỗi, một người đàn ông trung niên lúi húi quét dọn trước cửa nhà. Ông cầm chiếc chổi và đồ hốt rác quét sạch vỉa hè rồi quét dọc theo lề đường, cẩn thận gom tất cả đám cát, bao ny-lông, mẩu thuốc lá, ly giấy, lá khô và đủ thứ rác rưởi của xã hội văn minh vào thùng, đậy nắm cận thận, đặt ngay ngắn xuống lòng đường, để ngày mai xe rác của thành phố lấy đi.

Hình như ông là người duy nhất ở khu phố này cầm chổi quét lòng đường và vỉa hè. Thói thường đều cho rằng chuyện đường phố sạch dơ để thành phố lo. Hơi đâu “bao đồng” chuyện nhà nước?

Thế nhưng cứ mỗi lần qua khu Japan Town, ông lại cảm phục người Nhật về tinh thần tự trọng và yêu mến thành phố của họ. Lúc nào ông cũng thấy những ông, bà Nhật lúi húi quét dọn vỉa hè và lòng đường.

Chính vì thế mà cả khu Japan Town lúc nào cũng sạch trơn. Chỉ cần bước qua ranh giới của Japan Town là một hình ảnh thật tương phản. Sự sạch sẽ, khang trang chỉ cách nhau một sợi chỉ. Có lần ông dừng xe lại hỏi thăm thì được các ông bà Nhật nói:

“Chúng tôi quan niệm rằng đường phố thuộc về người dân, không hoàn toàn thuộc về chính phủ. Do đó giữ gìn đường phố sạch sẽ cũng là trách nhiệm của người dân. Đồng ý là chúng tôi có đóng thuế để thành phố lo chuyện vệ sinh nhưng giờ đây thành phố có quá nhiều việc phải lo hoặc lo không xuể. Chúng tôi không ngồi đó than trời trách đất. Nếu muốn sở rác phục vụ tốt hơn thì chúng tôi lại phải đóng thêm thuế. Thôi thì chúng tôi chia xẻ trách nhiệm với nhà nước mà cũng là để giữ gìn đường phố của chính mình. Chẳng mất mát gì cả. Tới một thành phố khang trang sạch sẽ người ta cảm phục cả đất nước lẫn con người ở đó. Chúng tôi yêu khu phố của chúng tôi và cũng muốn khách vãng lai yêu mến nó.”

Chinh vì cảm phục người Nhật mà tuần nào ông cũng làm công việc này mà chẳng than phiền chi cả. Khi nhận thấy vỉa hè và lòng đường đã khá sạch, ông toan thu dọn để bước vào nhà thì một thanh niên từ xa bước tới, miệng phì phèo điếu thuốc. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc và đi đứng người ta có thể nhận ra đây là một chàng thanh niên ngang tàng. Khi tới chỗ ông đang đứng, người thanh niên rít hơi cuối cùng rồi coi như không có ai, thản nhiên quăng mẩu thuốc lá xuống đường. Nhìn mẩu thuốc là nằm tênh hênh trên mặt vỉa hè sạch trơn, dường như nó có vẻ “phá hoại” và trêu ngươi, cho nên người đàn ông tức giận, lớn tiếng gọi người thanh niên:
- Này, yêu cầu quay lại nhặt tàn thuốc lá lên nghe!

Người thanh niên đã đi cách xa ông khoảng năm, sáu bước, nghe gọi thế quay đầu lại nhìn với vẻ hết sức ngạc nhiên. Anh ta ngạc nhiên vì có thể cả trăm lần quăng mẩu thuốc lá như thế này mà chẳng ai phản ứng gì, nay có một “gã điên” làm chuyện không giống ai. Anh ta quay lại, sẵng giọng hỏi:

-Ông nói gì?
-Yêu cầu cậu nhặt mẩu thuốc lá lên!

Mặt chàng thanh niên đỏ gay:
-Bộ đường phố này của ông hả?

Người đàn ông trả lời ngay:
-Không phải của tôi nhưng tôi tôi quét dọn sạch sẽ. Người tự trọng không bao giờ xả rác bừa bãi. Cậu hiểu điều đó không? Tôi yêu cầu cậu nhặt lên!

Tự ái bị tổn thương, người thanh niên không cần phân biệt đúng-sai, nói như gây sự:
-Không nhặt thì sao?

Sự lớn tiếng qua lại giữa hai bên làm người trong nhà chạy ra, người qua lại trên hè phố tò mò đứng lại. Cuối cùng tất cả đều thấy đây không phải chuyện đại sự cho nên xúm vào can gián. Cuối cùng người thanh niên hậm hực bỏ đi còn người đàn ông đứng phân bua một hồi rồi bực bội bước vào nhà.
Ba ngày sau, tại một khu phố khác cách đó khoảng năm, sáu con đường người ta thấy một vị sư đang quét rác tại cổng một ngôi chùa. Hôm nay là Thứ Hai chùa vắng, phật tử đi làm hết, sau hai ngày cuối tuần bận rộn với sinh hoạt và lễ lạc, rác đã thấy lai rai trên sân. Ngoài ra, còn lá trên cây rụng xuống cho nên thầy trụ trì ra công quét dọn, vừa vận động vừa làm sạch trong ngoài. Đối với người xuất gia, quét rác cũng là “công phu”.

Sau khi cổng chùa đã sạch sẽ, sư toan đẩy thùng rác trở vào thì một chàng thanh niên tà tà bước tới. Đây chính là anh chàng đã gây sự với người đàn ông quét rác ba ngày trước. Khi đi tới cổng chùa, có thể do vô tình, do quán tính, cố tật, hoặc đãng trí, sau khi mở bao thuốc lá, chàng ta rút ra một điếu, châm lửa. Thấy bao thuốc đã hết, chàng ta quăng cả chiếc bao trống không dưới chân bức tường cạnh cổng chùa rồi thản nhiên bước đi. Thế nhưng khi bước đi khoảng năm, sáu thước, có thể do nhớ lại cuộc “đụng độ” với người đàn ông trước đây, chàng ta quay đầu lại xem sự thể như thế nào. Trái với phỏng đoán của mình, vị sư bình thản bước tới chân bức tường, cúi xuống nhặt bao thuốc lá lên, quay lại thùng rác, mở một bao rác nhỏ, bỏ bao thuốc lá trống vào bên trong, cột trở lại, bỏ vào thùng rác rồi lặng lẽ đẩy thùng rác vào bên trong sân chùa, không hề quay nhìn chàng thanh niên …đang ngạc nhiên đứng đó.

Ngày hôm sau, chàng thanh niên tới thăm vị sư. Sau khi giới thiệu mình chính là người xả rác trước cổng chùa. Chàng ta kể lại chuyện “đụng độ” với người đàn ông rồi hỏi:
-Thưa thầy, tại sao cùng một chuyện mà thầy lại có lối cư xử nhẹ nhàng hơn người đàn ông kia?

Sư hiền từ đáp:

-Người đàn ông đó là một công dân tốt. Một công dân tốt do làm tròn bổn phận của mình cho nên thường thẳng thắn nói lên cái sai của người khác để cùng nhau sửa chữa trong tinh thần ôn hòa. Tuy nhiên cách hành xử giữa một người thường và một người xuất gia có khác nhau. Người xuất gia không nói về cái lỗi của kẻ khác mà kham nhẫn để kẻ phạm lỗi giác ngộ mà tu sửa. Hai lối hành xử đó không cái nào hơn cái nào, “vạn pháp đều bình đẳng”, chỉ tùy duyên ứng xử mà thôi.

Một căn nhà, một ngôi chùa, một khu phố hoặc nơi làm việc cần phải sạch sẽ. Sự sạch sẽ làm trang nghiêm cuộc sống và thế giới. Ngay đầu óc chúng ta cũng cần sạch sẽ. Muốn sạch sẽ thì phải quét rác. Một chiếc máy điện tử muốn tốt cũng phải “đổ rác”. Đầu óc con người muốn thanh tịnh, sạch sẽ cũng phải “đổ rác”- đổ bớt rác rưởi của tâm hồn.

Những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, tị hiềm, những tư tưởng loại trừ, kỳ thị, ghét bỏ đều là rác rưởi của tâm hồn. “Quét rác” và “đổ rác” là việc làm thường xuyên của người nào muốn tâm hồn thanh tịnh. Từ thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Vì tâm không động cho nên ít gây đổ vỡ.

Ba ngày sau, chàng thanh niên tìm tới nhà người đàn ông, nói lời xin lỗi. Chàng học được một bài học nơi sư, “Thay vì xả rác xuống đường hoặc nơi công cộng thì nên xả bớt rác trong tâm hồn mình.”

Lời người kể chuyện:

Ngoài đức tính kham nhẫn, có thể sư đã đạt tới mức “vô phân biệt”. Sư cứ thấy rác thì quét mà không hề phân biệt rác từ cây đổ xuống, phật tử xả ra, nam hay nữ, lạ hay quen cho nên rác của chàng thanh niên cũng thế thôi. Chính vì “vô phân biệt” cho nên sư không động tâm. Không động tâm cho nên sư đã quét rác trong trạng thái “vô tâm”. Mà vô tâm thì an lành.

Nguồn: "Chuyện hai người quét rác" của tác giả Đào Văn Bình trên phatgiao.org