Just another free Blogger theme

Được tạo bởi Blogger.

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

Tất nhiên ai cũng biết và đều đã nghe tên qua Gia Cát Lượng. Một nhân tài kiệt xuất, nổi danh từ thời tam quốc tới ngày nay. Nếu Quan Vũ đại diện cho sức mạnh và sự trung nghĩa, thì Gia Cát Lượng đại diện cho tài trí, trí tuệ. Khi còn ở núi Ngọa Long, ông đã viết ra bộ sách "Tướng Uyên" cách để chọn ra người tài, và những tiêu chí để đánh giá con người như "Chí, Biến, Thức, Dũng, Tính, Liêm, Tín". Đây là 7 tiêu chí lớn để đánh giá và chọn người của Gia Cát Lượng. Tôi xin được tổng hợp và trích dẫn lại.



“Vấn chi dĩ thị phi nhi quan kỳ Chí”
Đem điều phải trái hỏi họ để biết “chí hướng”

Nghĩa là hỏi họ về điều phải lẽ trái để xem xét chí hướng của họ. Muốn trọng dụng một người, trước tiên phải biết được ý chí, lập trường của người ấy ra sao. Nếu như đối phương lẫn lộn giữa điều phải lẽ trái hoặc mơ hồ giữa cái đúng cái sai, lập lờ trắng đen thì quyết không thể giao phó trọng trách. Bởi lẽ con người này không vững vàng, không kiên định về lập trường, dễ đổi trắng thay đen và dễ phản trắc.

Chí hướng là động lực thúc đẩy con người tiến lên. Người không có chí hướng thì không thể làm nên việc lớn. Người không có chí hướng chẳng khác gì người đi đêm không có trăng sao, người đi biển không có ngọn hải đăng. Bởi vậy, biết rõ được chí hướng của con người thì sẽ đánh giá được ý chí của họ. Không chỉ Trung Quốc, tại nhiều nước trên thế giới, phần lớn những nhà chính trị, nhà chiến lược, nhà quân sự nổi tiếng đều có chí hướng ngay từ khi tuổi còn nhỏ.



“Cùng chi dĩ từ biện nhi quan kỳ Biến”
Lấy lý luận dồn họ vào thế bí để biết “biến thái”

Nghĩa là đưa ra nhiều câu hỏi, lý lẽ dồn họ vào thế đường cùng để xem khả năng ứng biến đối phó với các tình huống của họ. “Biến” ở đây là chỉ khả năng ứng phó, năng động. Khi chọn người, Gia Cát Lượng thường dồn dập đưa ra những lý lẽ, những tình huống để dồn họ vào thế đường cùng, thế bí nhằm xem xét khả năng đối phó, ứng biến của đối phương.

Người có khả năng ứng biến giỏi, nhất là các tướng cầm quân khi bị dồn vào thế đường cùng, họ ắt sẽ biết cách ứng phó, biết chuyển bại thành thắng, biết mở cho mình con đường sống. Người xưa có câu: “Sơn trùng thủy phục nghi vô lộ. Liễu âm hoa minh hựu nhất thôn”. Nghĩa là trong thế đường cùng bốn bề sông núi tưởng không lối thoát, nhưng người biết ứng biến, năng động vẫn có thể mở ra lối thoát tới nơi rực rỡ đầy hoa.



“Tư chi dĩ kế mưu nhi quan kỳ Thức”
Lấy mưu trí trị họ để trông thấy “kiến thức”

Nghĩa là dùng mưu kế của mình để tham khảo những mưu kế, sách lược của đối phương, thông qua đó có thể đánh giá những kiến thức của đối phương



“Cáo chi dĩ nan nhi quan kỳ Dũng”
Nói cho họ những nỗi khó khăn để xét “đức dũng”

Nghĩa là đặt ra những tình huống gian nguy, khó khăn để đánh giá sự dũng cảm của đối phương, nhất là đối với những tướng cầm quân ngoài mặt trận. Thời cổ đại, hai tiêu chuẩn rất quan trọng đối với tướng lĩnh là “Trung, Dũng”, tức là trung thành và dũng cảm. Người Trung Quốc xưa có câu “Hiệp lộ tương phùng dũng giả thắng”, nghĩa là hai đối thủ gặp nhau trên con đường độc đạo, người dũng cảm sẽ chiến thắng.

Khi lựa chọn hiền tài, Gia Cát Lượng thường đưa ra những nghịch cảnh, khó khăn gian nguy để thử thách sự dũng cảm của họ, bởi lúc lâm nguy tinh thần dũng cảm vô cùng quan trọng. Khắc phục một khó khăn có thể dễ dàng nhưng khắc phục 10 hay 100 khó khăn, gian nguy liên tiếp đòi hỏi con người phải có tinh thần dũng cảm vô song. Một nhà triết học người Đức từng nói: “Chỉ có con người nào đã từng trải qua sự giày vò của địa ngục thì mới có sức mạnh để xây dựng được thiên đường”.



“Túy chi dĩ tửu nhi quan kỳ Tính”
Cho họ uống rượu say để dò “tâm tính”

Gia Cát Lượng cho đối phương uống rượu say để đánh giá tính tình, thực tâm của họ. Rượu là chất kích thích, khi bị say thì vỏ đại não bị tê dại, con người khi ấy bị mất lý tính, không còn ý thức được những hành vi của mình. Nên lời nói của họ không chút giấu giếm mà rất thực lòng. Từ đó Gia Cát Lượng đánh giá đúng thực chất tâm tính của đối phương.



“Lâm chi dĩ lợi nhi quan kỳ Liêm”
Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng “liêm chính”

Nghĩa là dành cho họ nhiều tiền tài, bổng lộc, thậm chí hứa giao cho trọng trách để đánh giá sự liêm khiết hay lòng tham lam của họ. Bản tính của con người thường có máu tham, hám lợi, tham tiền, nhất là những người làm quan và giữ trọng trách lớn. Gia Cát Lượng cho rằng, một người liêm khiết thường có những đặc điểm như: Trung thành vô hạn, Làm việc liêm khiết vô tư, Thấu hiểu nỗi khổ của dân chúng, Chú trọng tiết kiệm, Không hám giàu sang, không mê tửu sắc, Tự khép mình vào kỉ luật.

 Khi làm Thừa tướng nước Thục, Gia Cát Lượng đưa ra nhiều đạo luật nghiêm khắc, nhưng không ai phàn nàn oán giận ông nửa lời. Bởi bản thân ông rất gương mẫu, liêm khiết. Nước Thục khi đó có nhiều quan thanh liêm và tướng tài, như Vận Tưởng Uyển, Đổng Hòa, Lưu Ba, Đổng Doãn, Dương Hồng. Thực tế cũng cho thấy, cổ kim đông tây, người nào vượt lên sự cám dỗ của tiền tài danh vọng thường là những quan thanh liêm, được lòng dân và góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.



“Kỳ chi dĩ sự nhi quan kỳ Tín”
Hẹn công việc với họ để đo “chữ tín” 

Tức là giao việc cho họ để xem lời họ hứa so với thực tế làm việc ra sao, từ đó đánh giá chữ “Tín” của họ. Gia Cát Lượng cho rằng: “Ngôn nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”, tức là một người chỉ biết nói suông không đi đôi với việc làm, là người không có chữ tín

Bởi vậy, có câu: “Thính kỳ ngôn, Quan kỳ hành”, tức nghe họ nói không đủ mà phải xem họ làm như thế nào. “Quốc vô tín bất hưng, nhân vô tín bất lập”, một đất nước mà không có chữ tín với các nước thì không thể hưng thịnh, một người không có chữ tín với mọi người thì không thể lập nghiệp.  




Tôi xin được nhận xét và ý kiến của bản thân. Chí là chí hướng, động lực của người. Nếu là người có chí hướng như Lưu Bị có chí hướng khôi phục lại nhà Hán. Nên khi đi đâu, làm gì ông cũng điều nghĩ về việc phải khôi phục. Còn Quan Vũ, Trương Phi, Gia Cát Lượng chí hướng theo Lưu Bị nên họ sẽ rất trung thành. Biến là ứng biến, phản ứng linh hoạt, nhanh nhạy. Khi cầm quân thì cần phải ứng biến để có thể chuyển từ bại thành thắng, nắm những cơ hội có lợi. Nếu cứ cứng nhắc theo một chiến thuật thì chắc chắn sẽ bị "lộ bài" và dễ dẫn đến thất bại. Thức là kiến thức, chiến lược. Làm việc gì cũng cần phải có kiến thức thì mới có thể làm việc được. Dũng là dũng cảm, sự can đảm. Làm việc gì mà cũng sợ thì chắc chắn khó làm được việc lớn. Tính là tính tình, tính cách con người. Gia Cát Lượng bật mí việc chuốc rượu sẽ bộc lộ được tính cách con người. Hèn chi mấy sếp nhà ta bắt mấy thằng đệ uống nhiều chắc là do muốn thử tính cách thằng này có ổn không. Liêm là liêm chính, ngay thẳng. Nếu người không liêm chính sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy sau này. Nếu gặp người ngay thẳng như Quan Vũ thì quá tốt. Chữ cuối cùng tín có nghĩa là chữ tín, lòng tin. Nếu nói suông mà không làm thì có thể đoán được rằng người này không hề trọng chữ tín. Ngoài ra, ông bà ta có câu "Một lần bất tín, vạn lần bất tin" quả không sai. Qua trên là 7 tiêu chí trong việc chọn người của Gia Cát Lượng. Nên nhớ đây là những tiêu chí để chọn thôi, chứ nếu chọn người tài mà phải đủ những tiêu chí trên thì quả rất khó. Vì vậy cũng cần phải biến đôi chút.

Nguồn: Bài viết "Giải mã 7 cách chọn người của Gia Cát Lượng" trên kienthuc.net.vn
Bài viết "7 cách nhìn người của Gia Cát Khổng Minh" trên blog.zin.


Tâm hướng thiện. Không tu hành cũng thành chánh quả

0 nhận xét:

Đăng nhận xét